Việt Nam “đội sổ” về năng suất lao động xã hội



– Năm 2020, năng suất lao động Việt Nam đạt 150.1
triệu đồng/người, tăng 64% trong giai đoạn 2011-2020.

– Năng suất lao động Việt Nam tăng nhưng vẫn thấp
hơn các nước trong khu vực, chỉ cao hơn Campuchia.

– Tuy nhiên, năng suất lao động dựa trên GDP/số
người lao động không phải là chỉ tiêu đo lường chính xác vì nó bao gồm vốn, công
nghệ và năng suất.

Tại
Việt Nam, năng suất lao động (NSLD) được coi là con đường ngắn nhất để đưa nền
kinh tế phát triển nhanh, nâng cao năng lực và sức cạnh tranh của nền kinh tế. NSLD
của VN ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng, với tốc độ tăng cao hơn nhiều so với
các nước trong khu vực. Nhưng về mặt giá trị, NSLD của Việt Nam vẫn còn thua xa
so với các nước phát triển.

Theo
Tổng cục Thống kê – Bộ Kế hoạch và đầu tư, năng suất lao động được tính bằng
cách lấy GDP / Tổng số lao động đang làm việc trong năm.

Việt Nam được World Bank đánh giá là ngôi sao
kinh tế toàn cầu với tốc độ tăng GDP nhanh nhất thế giới trong 30 năm qua nhờ 3
yếu tố chính là tích lũy vốn nhanh, nguồn cung lao động dồi dào và tăng trưởng
năng suất cao.

Năm
2020, năng suất lao động của toàn nền kinh tế ước tính đạt 150.1tr đồng/lao động,
tương đương 6,466 USD/lao động, gấp 2 lần năm 2010 (70.3tr đồng/lao động),
tương đương với mức tăng 64% trong giai đoạn 2011-2020. Năm 2011, số giờ làm việc
trung bình mỗi tuần của một lao động đang làm việc ở Việt Nam giảm từ 45.6 giờ
xuống còn 41.9 giờ vào năm 2020. Tính theo giá hiện hành, năng suất lao động
trên mỗi giờ của người Việt đã tăng từ 29,000đ/giờ năm 2011 lên 67,600đ/giờ năm
2020.

Có thể
thấy, NSLD của VN đã cải thiện đáng kể về giá trị và là quốc gia có tốc độ tăng
trưởng NSLD nhanh hơn tất cả các quốc gia cùng khu vực, nhưng năng suất lao động
vẫn thấp hơn nhiều so với các nước đồng cấp.

Trong
giai đoạn 2011-2020, tốc độ tăng NSLD của VN là 5.29%, trong đó bình quân giai
đoạn 2016-2020 tăng 6.05%, vượt mục tiêu đề ra trong Nghị quyết số 05-NQ/TW Hội
nghị lần thứ IV Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII là tốc độ tăng NSLĐ bình
quân hằng năm giai đoạn 2016-2020 cao hơn 5.5%. Nhưng nếu so thì mức tăng này vẫn
thấp hơn Trung Quốc là 7% và Ấn Độ là 6%.

Theo
số liệu của Tổ chức Năng suất châu Á (APO), năm 2020, giá trị sản xuất mỗi giờ
lao động của người Việt Nam chỉ đạt 6.4 USD, so với 14.8 USD ở Thái Lan, 45.8
USD ở Malaysia và 68.5 USD ở Singapore, nghĩa là NSLD của Việt Nam hiện nay
đang tụt hậu 10 năm so với Thái Lan, 40 năm so với Malaysia và 60 năm so với Nhật
Bản. Trong khu vực Đông Nam Á, NSLĐ của Việt Nam chỉ cao hơn Campuchia (2.4 lần),
Myanmar (1.6 lần) và Lào (1.2 lần).

Nếu
tính theo Sức mua tương đương (PPP) giai đoạn 2017-2020, NSLD của VN năm 2020 đạt
18.4 nghìn USD, chỉ bằng 11.3% năng suất của Singapore, 23% của Hàn Quốc, 24.4%
của Nhật Bản, 33.1% Malaysia, 59.1% Thái Lan, 60.3% Trung Quốc, 77% Indonesia
và 86.5% Phillipines.

Thêm
vào đó, năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) trung bình ở cấp doanh nghiệp chỉ tăng
dưới 2% trong giai đoạn 2014-2018, thấp hơn mức của nhiều nền kinh tế Đông Á (dữ
liệu của IMF năm 2022). Bên cạnh đó, theo World Bank, kinh tế Việt Nam đã tăng
trưởng nhanh chóng, nhưng chủ yếu nhờ FDI, ít tác động lan tỏa đến các doanh nghiệp nội
địa.

Năm
2021, tốc độ tăng NSLĐ chỉ đạt 4.6% so với năm 2020 do kinh tế Việt Nam chịu ảnh
hưởng của dịch COVID-19. Mặc dù năm 2022 kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng
cao 8.02% nhưng NSLĐ cũng chỉ tăng 4.7% so với năm 2020. Năm 2022, so với các nền
kinh tế phát triển có quy mô lớn, NSLĐ của Việt Nam bằng 15.4% của Mỹ; 19.1% của
Pháp; 21.6% của Anh; 24.7% của Hàn Quốc; 26.3% của Nhật Bản và 59% của Trung Quốc.

Giai
đoạn 2021-2023, NSLD liên tiếp hụt hơi và không đạt mục tiêu đề ra. Nếu như tốc
độ tăng NSLD năm 2021, 2022 lần lượt là 4.6% và 4.8% – thấp hơn so với mục tiêu
đặt ra là 5.5% thì năm 2023 ước tính tăng 3.77 – 4.76%. Như vậy, bình quân 3
năm 2021-2023 tăng 4.36 – 4.69%, thấp hơn so với bình quân 3 năm 2016 – 2018
(6.26%).

Theo
tính toán của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), nếu NSLD tăng 1.0% thì GDP của toàn
nền kinh tế tăng 0.94 điểm phần trăm. Bài toán đặt ra cho Việt Nam là tăng trưởng
năng suất bởi năng suất chính là con đường ngắn nhất đưa kinh tế Việt Nam đi
lên, bởi vì giữa NSLD và GDP có mối tương quan chặt chẽ với nhau. Vậy thì với mục
tiêu tăng trưởng kinh tế khoảng 6.5 – 7.0%/năm giai đoạn 2021-2030, năng suất lao động
phải tăng trưởng với mức tăng trung bình 6-6.5%/năm. Với năng suất lao động còn
tăng thấp hơn mức tăng GDP như hiện nay thì đây là thách thức lớn đối với kinh
tế Việt Nam trong thời gian tới.

Tại
Việt Nam, ngành khai khoáng Việt Nam có NSLĐ cao nhất so với các ngành khác,
khoảng 1.4 tỷ đồng/người, vì số lượng lao động trong ngành này rất nhỏ, chỉ chiếm
khoảng 0.4% tổng lao động.

Kinh
tế VN phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, nhưng NSLD trong ngành này lại không cao,
chỉ khoảng 81trđ/người vào năm 2023, tương đương với 6.8trđ/tháng. Nguyên nhân
NSLĐ ngành nông nghiệp còn thấp là do quy mô sản xuất nông nghiệp VN còn nhỏ lẻ,
nền nông nghiệp chưa chuyển mình theo hướng nông nghiệp hiện đại, vùng nông
thôn bị ô nhiễm, thiếu quy hoạch sản xuất, năng lực làm chủ của người nông dân
còn hạn chế, vắng bóng các doanh nghiệp lớn, phần lớn là hợp tác xã, doanh nghiệp
tư nhân đang sử dụng công nghệ lạc hậu.

Đa số
lao động trong nông, lâm, ngư nghiệp là lao động giản đơn, công việc có tính thời
vụ, không ổn định nên giá trị gia tăng tạo ra thấp. Mặc dù tỷ lệ lao động trong
khu vực này đã giảm từ mức 48.6% vào năm 2010 xuống 27.9% vào năm 2022 nhưng số
lượng người lao động vẫn còn cao, dẫn đến NSLĐ trong ngành này vẫn còn thấp.

Ngành
công nghiệp chế biến chế tạo tập trung cao ở những sản phẩm xuất khẩu dựa trên
nền tảng công nghệ thấp đến trung bình. Trong khi ngành công nghệ cao tập trung
ở khu vực FDI lại hoạt động ở khâu rắp ráp, nhập khẩu linh kiện, nên tỷ trọng đóng
góp vào GDP trong nước thấp hơn. Đồng thời, ngành công nghệ
cao chủ yếu tận dụng lao động chi phí giá rẻ, chưa có nhiều tác động lan tỏa đối
với khu vực trong nước nên chưa tạo đột phá về tăng trưởng NSLĐ.

Khá
nhiều tranh luận xoay quanh vấn đề tại sao NSLD Việt Nam nằm ở cuối bảng xếp hạng.
Nếu năng suất lao động thấp thì có các lý do chính sau: Một là người VN lười
lao động hơn các nước khác. Hai là công nghệ sản xuất còn thua kém các nước
khác. Ba là xuất phát điểm thấp. Cuối cùng là hệ thống giáo dục đào tạo chưa
đáp ứng được sự thay đổi của xã hội.

1. Lười
làm

Năm
2013, một CEO người Nhật đăng trên một tờ báo lớn rằng 20 năm trước, người Việt
Nam rất chăm chỉ. Nhưng 20 năm sau, người Việt đã lười đi. Ông cho rằng người
Việt coi thường những người lao động chân tay, ưa chuộng làm việc văn phòng có
điều hòa hơn vì thế mà dần bỏ bê lĩnh vực sản xuất và công nghệ.

Việt
Nam có gần 8,000 lễ hội, trung bình mỗi ngày diễn ra khoảng 22 lễ hội, tức là
bình quân mỗi giờ lại có một lễ hội được diễn ra. Mà cứ đến lễ là người Việt
xin nghỉ, sau lễ thì có cái gọi là “dư âm lễ” nên chẳng muốn làm.

Người
Việt còn uống bia rượu nhiều nhất nhì Đông Nam Á, chiếm 2.2% thị trường toàn cầu,
tiêu thụ khoảng 3.8 triệu lít bia hàng năm, tương đương với khoảng 3 tỷ USD. Cứ
khi tan tầm là lại ra quán nhậu nhẹt, nhiều nhất là ở khu vực TP.HCM và Hà Nội.
Mặc dù chưa có nghiên cứu chính thức nào chỉ ra rằng nhậu nhẹt làm giảm NSLĐ,
nhưng rõ ràng là người Việt “nhất bảng” uống bia và “đội sổ” về NSLĐ.

2. Công
nghệ lạc hậu

75%
doanh nghiệp sản xuất ở Việt Nam đang sử dụng máy móc hết khấu hao và nhiều
doanh nghiệp vẫn laoy hoay chưa có phương án thay thế các máy móc sản xuất vốn
đã lạc hậu 2-3 thế hệ công nghệ. Đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực
sản xuất công nghiệp (chiếm khoảng 1/3 tổng số doanh nghiệp), nhưng
nhóm doanh nghiệp có trình độ công nghệ tiên tiến chỉ khoảng dưới
20% (chủ yếu là các doanh nghiệp FDI).

Mặc
dù Việt Nam có tốc độ tăng GDP vô cùng ấn tượng so với các nước khác, nhưng
trong cơ cấu kinh tế Việt Nam, khu vực FDI đóng góp đến 20.46% GDP trong năm
2022, chiếm 72% tổng giá trị xuất khẩu và 50% sản lượng công nghiệp. Đa phần
GDP tăng là do khu vực FDI đóng góp.

Nhóm
các doanh nghiệp FDI tuy chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong toàn bộ các doanh nghiệp
Việt Nam, thế nhưng lại vượt trội so với các doanh nghiệp nội địa xét về việc
làm, lợi nhuận và năng suất lao động. Cụ thể, nhóm này chỉ chiếm khoảng 3.3% tổng
số lượng các doanh nghiệp tại Việt Nam nhưng lại chiếm đến 30% tổng số lượng việc
làm và doanh thu, nhưng năng suất lao động cao gấp 3 lần so với doanh nghiệp nội
địa.

Mặc
dù một trong những mục tiêu đặt ra khi thu hút FDI đó chính là chuyển giao công
nghệ và kiến thức hiện đại, nhưng tác động lan tỏa của FDI đến doanh nghiệp nội
hầu như rất thấp. Thêm nữa, FDI chủ yếu tập trung vào lắp ráp, gia công, tỷ lệ
nội địa hóa thấp nên giá trị tạo ra tại VN không cao.

Hiện
nay, tỷ lệ doanh nghiệp Việt có hoạt động R&D, có trình độ khoa học công
nghệ và đổi mới sáng tạo còn thấp, trong khi thực tế chứng minh rằng những
doanh nghiệp có các hoạt động này có mức NSLĐ cao hơn so với các doanh nghiệp
không có.

3. Xuất
phát điểm thấp

Số
lao động làm việc trong khu vực năng suất thấp chiếm tỷ trọng khá lớn, chẳng hạn
như trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Đa số lao động trong khu vực này là lao
động giản đơn, công việc có tính thời vụ, không ổn định nên giá trị gia tăng tạo
ra thấp, dẫn đến NSLĐ trong ngành này vẫn còn thấp.

Quy
mô doanh nghiệp VN đa phần là nhỏ và siêu nhỏ, quy mô doanh nghiệp có số lượng
lao động từ 10 người trở xuống chiếm đến 69.3% tổng số doanh nghiệp Việt Nam. Đồng
thời các doanh nghiệp này cũng tập trung vào ngành bán lẻ, F&B đơn thuần
nên tính ra phần giá trị gia tăng trên mỗi sản phẩm thấp là phải.

Bên cạnh
đó, các doanh nghiệp trong nước cũng chưa tham gia sâu vào hoạt động chuỗi cung
ứng toàn cầu của các tập đoàn, nên chưa tận dụng được tính lan tỏa của tri thức,
công nghệ và nâng lực quản trị từ thế giới. Cho nên NSLĐ của khu vực doanh nghiệp
cũng còn thấp mặc dù giữ vị trí đặc biệt quan trọng, tạo ra 60% GDP của nền
kinh tế.

Quy
mô thị trường nội địa còn quá nhỏ bé, ngoại trừ thị trường bia và mỳ gói. Vì thế
Việt Nam cũng sẽ khó mà tăng năng suất nếu không tìm được thị trường xuất khẩu.

Quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực nhưng còn chậm, theo chiều
rộng chứ chưa phát triển chiều sâu. Nếu như năm 2010, Việt Nam có 48.6% lực lượng
lao động làm việc ở khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, thì đến năm 2022,
tỷ trọng này chỉ còn 27.9%, song vẫn còn tới 13.9 triệu lao động làm việc trong
khu vực này với năng suất thấp nhất trong các ngành. Phần lớn lao động di chuyển
ra khỏi ngành nông nghiệp chuyển sang làm trong các ngành công nghiệp chế biến
– chế tạo không đòi hỏi tay nghề, trình độ và gần như không được đào tạo, nên năng
suất ngành công nghiệp cũng không được cải thiện mấy.

4. Giáo
dục đào tạo còn nhiều bất cập

Trình
độ tay nghề người lao động Việt Nam tương đối thấp so với tiêu chuẩn của khu vực
chung và thế giới. Hiện nay, cơ cấu lao động theo ba khu vực kinh tế chưa hợp
lý, còn tập trung nhiều ở khu vực nông lâm ngư nghiệp: 27.9% ở nông nghiệp;
33.6% ở lĩnh vực công nghiệp-xây dựng và 27.9% ở lĩnh vực dịch vụ.

Sự
chuyển dịch ồ ạt nguồn lao động từ lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp sang hai lĩnh vực
còn lại mà không trải qua bất kỳ chương trình đào tạo nào đã khiến nguồn lao động
Việt trở nên tụt hậu so với các nước khác, dẫn đến nguồn cung lao động giá rẻ.

Tỷ lệ
lao động của ngành nông, lâm, ngư nghiệp thấp, năm 2021 là 4.1% – giảm 4.3% so
với năm 2015; công nghiệp chế biến chế tạo tăng chậm và vẫn ở mức thấp (năm
2015 là 18% và 2021 là 23.6%). Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo từ 3 tháng trở lên
được cấp bằng, chứng chỉ còn thấp, đạt 26.4% vào năm 2022. Nói cách khác, toàn
nền kinh tế hiện có tới 37.2 triệu lao động chưa được đào tạo để đạt trình độ
chuyên môn kỹ thuật nào đó, chiếm 73.6% tổng số lao động. Đa số người lao động
chưa được tập huấn về kỷ luật lao động công nghiệp, thiếu ý thức tiết kiệm cả về
nguyên vật liệu và thời gian, cả người quản lý lẫn người lao động còn rất yếu về
ý thức tiết kiệm.

Người
lao động hiện nay cũng thiếu kỹ năng làm việc nhóm, thiếu khả năng hợp tác và
trách nhiệm, ngại phát huy ý kiến. Đây là những rào cản lớn cho việc cải thiện
NSLĐ.

Nhiều
người còn cho rằng dùng đơn vị tiền tệ (thông qua GDP) để so sánh NSLD là không
hợp lý, vì ngoài NSLĐ, GDP còn bao gồm cả vốn và công nghệ, chưa kể đến chênh lệch
tỷ giá làm cho giá trị sản phẩm ở các nước khác cao hơn Việt Nam. Vì vậy, công
thức này thể hiện giá trị sản xuất chứ không phải năng suất lao động.

Nếu
giá trị sản xuất Việt Nam thấp nhất trong khu vực, thì chứng tỏ sức cạnh tranh
của nền kinh tế Việt Nam không bằng các quốc gia khác. Thậm chí là có những
ngành NSLĐ của VN rất cao, nhưng một số nước lại tìm cách hạn chế sản phẩm của
VN xuất sang, nên theo cách tính NSLĐ truyền thống thì NSLĐ VN thấp là đúng.

Một đại
diện của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) cho biết việc so sánh
NSLĐ của người Việt với các nước khác có phần khập khiễng. Chẳng hạn như ngành
điện tử, nếu so sánh cùng một công đoạn là gia công sản phẩm cuối cùng thì NSLĐ
của Việt Nam tương đương với các nước khác. Nhưng giá trị gia tăng tạo ra thì
Việt Nam lại thấp hơn vì phần lớn là hàng gia công may mặc, nông nghiệp chủ yếu
là gạo, thậm chí những ngành này đã bị Lào, Campuchia hay Thái Lan vượt mặt từ
lâu.

Tại Mỹ,
một nha sĩ lấy cao răng tạo ra khoảng 150 USD giá trị, trong khi ở Việt Nam khoảng
5 USD. Điều này không có nghĩa là nha sĩ ở Mỹ có năng suất gấp 30 lần ở Việt
Nam. Giá cả và GDP lớn hơn thường tạo ra chỉ số NSLĐ cao hơn. Vì thế, nếu NSLĐ
của nha sĩ Mỹ cao gấp 30 lần nha sĩ Việt Nam, không có nghĩa là 1 nha sĩ Mỹ làm
bằng 30 nha sĩ Việt Nam. Đây là lý do tại sao chỉ số này gây nhiều tranh cãi
trong thời gian gần đây.

Năng
suất lao động không phải là tất cả, nhưng trong dài hạn, năng suất gần như là
cái quyết định tất cả. Năng suất lao động phản ánh năng lực tạo ra của cải, hiệu
suất lao động của nền kinh tế, nhưng NSLĐ của Việt Nam vẫn còn khá thấp so với
các nước trong khu vực mặc dù tốc độ tăng trưởng GDP lại là điểm sáng. Điều đó
chứng tỏ nội lực kinh tế của Việt Nam vẫn còn khá yếu.

Muốn
cải thiện NSLĐ thì cần phải tập trung vào động lực nội là khu vực doanh nghiệp
trong nước, doanh nghiệp Start-up và đầu tư vào các ngành dùng chất xám nhiều
hơn để cải thiện giá trị và cơ cấu sản phẩm Việt Nam làm ra. Người lao động
cũng cần nâng cao ý thức, kỷ luật, chịu khó học hỏi, rèn luyện tay nghề vì đây
là điều tất yếu trong thời kỳ hiện tại, nếu không đáp ứng được thì có thể bị
đào thải.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *